Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy

Hiện nay nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế giới và các quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ động trong học tập của học sinh dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở một số bộ phận học lực yếu kém.

Môn Tin học ở trường THCS trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó trong xã hội hiện đại. Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kỹ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và cuộc sống. Tin học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển trí tuệ, tư duy thuật toán, góp phần hình thành học vấn phổ thông cho học sinh.

Đối với trường THCS, vấn đề nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học là một vấn đề cấp thiết hàng đầu. Như vậy, phương pháp giảng dạy môn Tin học như thế nào thì hợp lí? Làm sao để các em phát huy tính học tập của mình một cách hiệu quả nhất? Theo tôi, mỗi giáo viên đều có một cách giải quyết của riêng mình. Với tôi “dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy” thực sự là vấn đề cần nghiên cứu để làm sao cho từng tiết dạy Tin học ngày càng gần gũi với các em hơn, cho các em cảm thấy hứng thú mỗi khi có tiết học Tin học.

docx 9 trang Chăm Nguyễn 04/04/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy
o học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó trong xã hội hiện đại. Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kỹ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và cuộc sống. Tin học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển trí tuệ, tư duy thuật toán, góp phần hình thành học vấn phổ thông cho học sinh.
 Đối với trường THCS, vấn đề nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học là một vấn đề cấp thiết hàng đầu. Như vậy, phương pháp giảng dạy môn Tin học như thế nào thì hợp lí? Làm sao để các em phát huy tính học tập của mình một cách hiệu quả nhất? Theo tôi, mỗi giáo viên đều có một cách giải quyết của riêng mình. Với tôi “dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy” thực sự là vấn đề cần nghiên cứu để làm sao cho từng tiết dạy Tin học ngày càng gần gũi với các em hơn, cho các em cảm thấy hứng thú mỗi khi có tiết học Tin học.
II. Về nội dung của sáng kiến: 
          Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học theo cách phát huy yếu tố tích cực và những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại nhằm tăng cường tính tích cực của học sinh trong tiếp nhận kiến thức, hình thành kĩ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và bước đầu vận dụng vào cuộc sống. Từ đó, giáo viên tạo điều kiện tối ưu để học sinh bồi dưỡng kĩ năng tự học.
          Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức tổ chức học tập kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác; giữa hình thức học cá nhân với hình thức học theo nhóm.
          Giáo viên có thể chủ động sáng tạo thiết kế giờ học căn cứ vào mục tiêu cụ thể của bài học, không gò bó theo một qui trình cứng nhắc những bước đi bắt buộc. 
          Tăng cường kiểm tra đánh giá bằng nhiều hình thức khác nhau theo chuẩn kiến thức kĩ năng, coi kiểm tra đánh gái như là một biện pháp kích thích hứng thú học tập.
          Phương pháp dạy và học hiện nay đang có xu hướng thay đổi một cách tích cực. Phương pháp mới hướng tới lấy học sinh làm trung tâm, học sinh không còn đóng vai trò tiếp thu một cách thụ động những kiến thức do giáo viên truyền đạt. Giáo viên trở thành người hướng dẫn, giúp đỡ học sinh. Học sinh hướng tới việc học tập chủ động, biết tự thích nghi. Kiến thức được cá nhân học sinh tự tìm tòi, phát hiện một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Ngoài ra, cách tổ chức học theo nhóm làm tăng thêm khả năng cộng tác, khả năng làm việc tập thể. Tin học là môn học có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện các phương pháp dạy và học mới này.
          Cũng như những môn học khác, việc dạy học Tin học cần được thực hiện trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Khi cần dạy một nội dung Tin học cho học sinh, người giáo viên phải biết phân tích nội dung đó liên quan đến những hoạt động nào. Và một số hoạt động trong đó lại được phân tích thành những hoạt động thành phần. Rồi căn cứ vào mục tiêu tiết học, trình độ học sinh, trang thiết bị hiện có mà lựa chọn cho học sinh tập luyện và thực hiện một số những hoạt động tiềm tàng trong nội dung cần dạy.
          Để học sinh có ý thức về ý nghĩa của những hoạt động, cần tạo động cơ học tập cho học sinh, để học sinh học bằng sự hứng thú thực sự, nó được nảy sinh từ việc ý thức sâu sắc ý nghĩa nội dung bài học, học bằng tất cả tính tích cực, độc lập và trách nhiệm cao nhất của học sinh.
          Cần phải đặt học sinh vào tình huống có vấn đề để hướng đích cho học sinh. Phải tập luyện cho học sinh những hoạt động ăn khớp với tri thức phương pháp. Phải phân bậc hoạt động để tuần tự nâng cao yêu cầu khi tình huống dạy học cho phép hoặc hạ thấp yêu cầu khi học sinh gặp khó khăn. Hệ thống bài tập được phân bậc để học sinh luyện tập tại lớp hoặc làm ở nhà.
Biện pháp thực hiện:
1.      Đối với giáo viên:
Người giáo viên phải soạn bài chu đáo, khi lên lớp, nhất thiết phải có giáo án trên giấy, ngay cả khi sử dụng máy chiếu Projector. Khi giảng bài, giáo viên phải làm rõ trọng tâm và mối quan hệ lôgíc nội tại của mạch kiến thức bài học, sắp xếp hợp lý hoạt động của giáo viên và học sinh; chuẩn bị hệ thống câu hỏi phát huy trí lực và phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh, (nhất là đối với bài dài, bài khó, nhiều kiến thức mới). Bồi dưỡng kỹ năng vận dụng sáng tạo kiến thức, hạn chế ghi nhớ máy móc, thay việc sửa lỗi bằng cách hướng dẫn học sinh tự trả lời câu hỏi: do đâu dẫn đến kết quả sai?
Giáo viên phải là người làm chủ lớp học, thiết lập bầu không khí thân thiện tích cực, chủ động giải quyết mọi tình huống bảo đảm yêu cầu sư phạm.
Sử dụng hợp lý sách giáo khoa (không đọc chép, hướng dẫn học sinh chỉ ghi theo diễn đạt của giáo viên, không để học sinh đọc theo sách giáo khoa để trả lời câu hỏi) và sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học, phương tiện trực quan, phương tiện nghe nhìn; ứng dụng hợp lý công nghệ thông tin. Ở một số bài phải làm rõ mối liên hệ dọc theo mạch kiến thức môn học và mối quan hệ môn với các môn học khác để khắc sâu kiến thức.
Cần phải tích luỹ, khai thác sử dụng hồ sơ chuyên môn, liên hệ thực tế sinh động để làm sâu sắc thêm bài giảng, giao bài tập, chủ đề nguyên cứu, sưu tầm về nhà để rèn luyện kỷ năng tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.
Giáo viên nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết, dẫn dắt học sinh tự đưa ra kết luận cần thiết. Dạy phải sát đối tượng, coi trọng bồi dưỡng học sinh khá giỏi và kiên trì giúp đỡ học sinh học lực yếu kém.
Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị thiết bị dạy học, học liệu, chủ động sưu tầm chọn lọc tư liệu liên hệ thực tế, nắm bắt các kỹ năng và kỹ thuật dạy học cần thiết (kỹ năng sử dụng thiết bị, viết bảng, vẽ hình, kỹ năng diễn giải, kỹ năng lôi cuốn chú ý, kỹ năng thao tác mẫukỹ năng tiến hành các hoạt động dạy học cụ thể; dạy học vi mô, dạy học theo nhóm, dạy học theo dự án, dạy học nêu vấn đề, trình bày theo cấu trúc).
   Cần phải nắm vững các phương pháp dạy học Tin học (theo sự đổi mới) nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập. Để nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học, giáo viên phải tiếp cận nội dung bài và lựa chọn các phương pháp, xây dựng hệ thống câu hỏi logic, phù hợp với ba đối tượng: giỏi, trung bình, yếu. Từ đó dẫn dắt học sinh tự khám phá kiến thức, không thụ động ghi nhận kiến thức giáo viên cung cấp, phải có sự phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học trên cơ sở lấy học sinh làm trung tâm.
   Để kích thích hứng thú học tập và hoạt động tích cực chủ động của học sinh, giáo viên phải phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp:
Cho học sinh thực hiện và luyện tập những hoạt động và hoạt động thành phần tương thích với nội dung và mục tiêu dạy học:
          Phân tách hoạt động thành những thành phần.
Ví dụ: Khi dạy câu lệnh:
          FOR := TO DO 
          Giáo viên yêu cầu học sinh phân tách câu lệnh này thành những câu lệnh thành phần diễn ra theo trình tự như sau:
          -   B1: Kiểm tra điều kiện nếu giá_trị_đầu > giá_trị_cuối thì kết thúc lệnh For.
          -   B2: Gán biến_điều_khiển := giá_trị_đầu.
          -   B3: Thực hiện câu_lệnh.
          -   B4: Kiểm tra điều kiện thoát: nếu biến_điều_khiển = giá_trị_cuối thì kết thúc lệnh For.
          -   B5: Tăng giá trị của biến_điều_khiển lên 1. Quay lên B3.
          Sau khi phân tách câu lệnh For học sinh sẽ nắm rõ hơn quá trình thực hiện câu lệnh
          => tránh nhiều sai sót khi viết chương trình.
Gợi động cơ cho các hoạt động học tập:
          a)     Đáp ứng nhu cầu xóa bỏ một sự hạn chế.
           Ví dụ: Khi lưu dữ liệu vào mảng, nếu sử dụng biến tĩnh ta có thể gặp vấn đề tràn bộ nhớ, lãng phí bộ nhớ. Để giải quyết vấn đề này, ta sử dụng biến cấp phát động để lưu trữ dữ liệu, biến động có thể bỏ đi khi không sử dụng nữa để tận dụng ô nhớ lưu các biến dữ liệu tiếp theo.
          b)     Hướng tới sự tiện lợi, hợp lí hoá công việc.
          Ví dụ: Khi tạo tình huống cho khởi tạo từ 3 ma trận trở lên và yêu cầu thực hiện phép toán cộng, trừ giữa 2 ma trận giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xây dựng các chương trình con để tính tổng và hiệu của 2 ma trận cho tiện lợi hơn, không mất thời gian.
          c)     Chính xác hoá 1 khái niệm.
          Ví dụ: Khái niệm biến toàn cục, biến địa phương, tham biến, tham trị; khi dạy chưa thể làm rõ mối quan hệ của chúng. Tuy nhiên, khi ứng dụng chương trình con để giải quyết các bài tập về mảng ta có điều kiện làm việc này.
          d)     Hướng tới sự hoàn chỉnh và hệ thống
          Ví dụ: Giáo viên có thể giới thiệu sơ đồ tất cả các kiểu dữ liệu trong Pascal trước khi định nghĩa khái niệm các kiểu dữ liệu chuẩn.
          e)     Lật ngược vấn đề: Sau khi giải quyết một vấn đề, một câu hỏi rất tự nhiên thường được đặt ra là vần đề ngược lại được giải quyết như thế nào.
          f)      Qui lạ về quen.
          Ví dụ: Khi dạy bài tính tổng S = 1 + 2 + 3 + + n  giáo viên cho học sinh tương tự giải bài tập viết chương trình tính tổng S = 12 + 22 + 32 + + n2
          g)     Khái quát hóa.
          Ví dụ: Giải bài toán tháp Hà Nội, đầu tiên ta đưa bài toán 3 đĩa, sau đó khái quát hóa lên n đĩa.
Dẫn dắt học sinh kiến tạo tri thức, đặc biệt là tri thức phương pháp như phương tiện và kết quả của hoạt động:
          a)     Những tri thức về phương pháp thực hiện những hoạt động tương ứng với những nội dung Tin học.
          Ví dụ: Đặt tên các đối tượng trong chương trình, khai báo phần tiêu đề của chương trình con,
          b)     Những tri thức về phương pháp thực hiện những hoạt động Tin học phức hợp.
          Ví dụ: Xây dựng thuật giải, kiểm thử chương trình,
          c)     Những tri thức về phương pháp thực hiện những hoạt động trí tuệ phổ biến trong Tin học.
          Ví dụ: Hoạt động tư duy, phân chia trường hợp,
          d)     Những tri thức về phương pháp thực hiện những hoạt động trí tuệ chung.
          Ví dụ: So sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa,
          e)     Những tri thức về phương pháp thực hiện những hoạt động ngôn ngữ logic.
          Ví dụ: Phát biểu bằng lời sự giống nhau và khác nhau của các câu lệnh lặp, thiết lập các biểu thức logic,
Phân bậc hoạt động làm căn cứ điều khiển quá trình dạy học:
          a)     Chính xác hóa mục tiêu: Nếu không có sự phân bậc hoạt động thì người ta thường đề ra mục tiêu dạy học một cách quá chung chung.
Ví dụ: Để học sinh nắm được khái niệm mảng một chiều, giáo viên có thể phân bậc hoạt động để đề ra mục tiêu chính xác hơn:
- Học sinh biết cách khai báo mảng một chiều.
- Biết nhập các giá trị vào một mảng.
- Biết cách xuất giá trị một mảng.
- Thành thạo trong việc truy nhập đến một phần tử của mảng. 
          b)     Tuần tự nâng cao yêu cầu: Giáo viên cũng có thể dựa vào sự phân bậc hoạt động để tuần tự nâng cao yêu cầu đối với học sinh.
          c)     Tạm thời hạ thấp yêu cầu khi cần thiết: Trường hợp học sinh gặp khó khăn trong khi hoạt động, giáo viên có thể tạm thời hạ thấp yêu cầu. Sau khi học sinh đạt được nấc thang này, yêu cầu lại được tiếp tục tuần tự nâng cao.
          d)     Dạy học phân hóa: Trong dạy học phân hóa, người giáo viên cần tính tới những đặc điểm của cá nhân học sinh, chú ý đến từng đối tượng hay từng loại đối tượng về trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đã đạt, về khả năng tiếp thu, nhu cầu luyên tập,để tích cực phân hóa hoạt động của học sinh trong học tập.
          2.  Đối với học sinh:
          Giáo viên phải tác động cho học sinh thấy được môn Tin học là cần thiết.
          Sách giáo khoa là phương tiện chủ yếu để học sinh học tập. Bên cạnh đó, học sinh phải biết chọn lọc những quyển sách đọc tham khảo để học tốt môn Tin học.
          Học sinh phải tích cực chủ động học tập và thực hiện các yêu cầu chuẩn bị ở nhà trước khi đến lớp. Trong quá trình học tập, các em phải tư duy theo gợi dẫn của giáo viên, phải chủ động quan sát vấn đề, hiện tượng, phối hợp giải quyết, khám phá ra nội dung bài học, thực hành vận dụng.
          Học thì phải hành. Thực hành là thước đo đánh giá tiếp nhận và vận dụng kiến thức. Hành thông thường là áp dụng bài tập trên lớp và ở nhà.
Với bài học bài tập và thực hành:
Qua tìm hiểu đặc trưng của những bài tập và thực hành trong chương trình Tin học 8 tôi thấy cấu trúc nội dung kiến thức trong phần bài tập và thực hành thường chia thành 2 phần tương đối rõ ràng: Phần 1 (mức đọc hiểu) thường là phần rèn luyện kĩ năng đọc hiểu những chương trình đã có sẵn; Phần 2 (mức vận dụng) yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức học ở bài học và những kiến thức đã biết để lập trình giải một số bài toán từ dễ đến khó.
Với kiểu bài này để phát huy tính tích cực của học sinh cuối tiết học trước giáo viên nên yêu cầu học sinh đọc trước thật kĩ nội dung bài học ở nhà với chương trình đã viết sẵn học sinh nên tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của từng câu lệnh trong chương trình. Với những học sinh có máy tính ở nhà giáo viên yêu cầu học sinh nên làm trước phần này ở nhà.
Khi giảng dạy tiết bài tập thực hành trong phòng máy tính, giáo viên cần chuẩn bị trước chương trình của những bài thực hành với bài chương trình đã có trong SGK và cả với những bài yêu cầu học sinh tự làm. Ở phần 1 đọc hiểu chương trình giáo viên mở trực tiếp chương trình đã viết trước dùng phương pháp đàm thoại giải thích chương trình. Sau đó giáo viên chốt lại cho học sinh nắm được những kiến thức đã sử dụng để viết chương trình trong bài học là gì, cách thức viết chương trình của dạng bài tập này như thế nào? Với những bài tập yêu cầu học sinh tự làm, ở những lớp học sinh có nhận thức khá tốt giáo viên dùng phương pháp đàm thoại gợi ý dẫn dắt học sinh tìm ra thuật toán để giải bài toán sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tự viết chương trình. Với những lớp học sinh có trình độ trung bình giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ hơn từng bước viết chương trình để giải bài toán, có thể chia nhỏ bài toán ra từng phần, phần dễ nên để cho học sinh tự làm còn phần khó giáo viên chữa và giải thích chương trình để cho học sinh nắm được. Trong thời học sinh thực hành viết chương trình trên máy GV chú ý theo dõi bao quát học sinh kịp thời phát hiện những lỗi sai học sinh mắc phải khi viết chương trình giải thích và hướng dẫn các em sửa những lỗi sai đó. 
Do điều kiện phòng máy thực hành số lượng máy còn ít, khi thực hành đa số các em phải ngồi 2 em trên 1 máy nên giáo viên phải có cách quản lí học sinh để hai em có thể cùng làm việc có hiệu quả. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh cách sửa chương trình từ tệp chương trình đã có, cách sao chép, di chuyển từng khối chương trình khi soạn thảo chương trình để tăng tốc độ viết chương trình của học sinh. Trước khi kết thúc buổi thực hành giáo viên nên giành khoảng thời gian 5 phút để đánh giá và nhận xét kết quả buổi thực hành, những máy các em thực hành tốt có thể cho điểm để động viên các em, nhắc nhở những nhóm các em chưa cố gắng thực hành chưa hoàn thành yêu cầu của buổi thực hành. Những bài thực hành còn chưa xong giáo viên nhắc các em về nhà hoàn thành tiếp nếu như ở nhà các em có máy tính, nhắc học sinh nội dung chuẩn bị cho tiết học tiếp theo.
Tác giả: Đào Biên - THCS Vĩnh Thịnh

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_nham_phat_huy_tinh_tich_cuc_cu.docx