Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới đánh giá học sinh khối 12 qua việc thực hiện các dự án xây dựng CSDL
Những năm qua, dù chưa thực hiện chươngtrình GDPT mới ở cấp THPT nhưng đã có nhiều đợt tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học cũng như đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực người học. Nhiều phương pháp dạy học mới được đề cập, nhiều cách thức kiểm tra mới được thảo luận. Riêng trong khâu kiểm tra đánh giá, tôi nhận thấy mọi người chủ yếu đang bàn về cách đánh giá các cấp độ tư duy của học sinh bằng cách lập ma trận đề kiểm tra. Trong đó, mọi người chủ yếu thảo luận về các vấn đề, như: Thế nào là câu hỏi nhận biết? Thế nào là câu hỏi thông hiểu? Thế nào là câu hỏi vận dụng thấp? Thế nào là câu hỏi vận dụng cao? Và tỉ lệ giữa các mức độ câu hỏi bao nhiêu là phù hợp? V.v… Như vậy, dù cách ra đề kiểm tra có khác, ma trận đề kiểm tra có khác, thì hình thức kiểm tra vẫn không thay đổi. Mà hình thức kiểm tra không thay đổi sẽ khó mà thay đổi một cách triệt để về cách dạy và cách học xưa nay vốn có.
Trước những trăn trở đó, tôi đã mạnh dạn tìm tòi, đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá sao cho vừa giảm tải áp lực thi cử cho họcsinh, vừa tiếp cận được năng lực của học sinh, vừa khuyến khích sự sáng tạo của học sinh trong việc vận dụng những kiến thức đã học vào việc giải quyết các bài toán trong thực tế.
Đối với môn Tin học 12, chủ đề xuyên suốt là tìm hiểu về Hệ cơ sở dữ liệu. Nếu học sinh có thể vận dụng những kiến thức đã học về CSDL để xây dựng nên một CSDL đáp ứng được yêu cầu của các bài toán quản lí trong thực tế, điều đó sẽ khuyến khích học sinh hào hứng hơn, sáng tạo hơn và yêu thích môn học hơn. Từ đó cũng sẽ làm thay đổi tư duy, thái độ và phương pháp học tập của học sinh theo hướng chủ động và tích cực hơn. Đó chính là lí do tôi triển khai đề tài “Đổi mới đánh giá học sinh khối 12 qua việc thực hiện các dự án xây dựng CSDL”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới đánh giá học sinh khối 12 qua việc thực hiện các dự án xây dựng CSDL

dữ liệu cho CSDL. Tuần 28 Tạo xong các câu truy vấn dữ liệu thường gặp. Tệp CSDL đã được tạo đầy đủ các câu truy vấn thường gặp đối với bài toán quản lí tương ứng. Tuần 31 Tạo xong các báo cáo thường dùng. Tệp CSDL đã được tạo đầy đủ các loại báo cáo thường gặp. Tuần 33 Tìm hiểu các chức năng mở rộng khác (tạo nút lệnh, câu truy vấn SQL, module, macro, ) Hoàn thiện dự án. Tệp CSDL với các chức năng mở rộng (tùy năng lực từng nhóm). Tuần 34, 35 Báo cáo sản phẩm cuối cùng (thuyết trình tại phòng hội trường, lấy điểm thi HK2) Bản mô tả bài toán quản lí. Bản theo dõi tiến độ kế hoạch thực hiện dự án của mỗi nhóm. Tệp CSDL hoàn chỉnh. Dựa vào bảng kế hoạch trên, tôi yêu cầu các nhóm tự lập kế hoạch riêng để theo dõi tiến độ cũng như đánh giá hiệu quả công việc và có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Trong bản kế hoạch của nhóm, ngoài việc phân chia công việc cho các thành viên còn phải có mục đánh giá mức độ hoàn thành công việc của mỗi thành viên, lí do chưa hoàn thành được công việc và cả việc phân công thành viên trợ giúp (nếu có). Dựa vào đó mà các thành viên trong nhóm có thể thúc đẩy và hỗ trợ nhau một cách hiệu quả. Ngoài ra nó cũng là cơ sở để học sinh có thể đánh giá chéo lẫn nhau. Giáo viên cũng nhờ đó mà biết được sự tiến bộ của mỗi học sinh trong nhóm cũng như khả năng hợp tác, hỗ trợ nhau của nhóm trong suốt quá trình thực hiện dự án, làm cơ sở để giáo viên cho điểm từng cá nhân trong nhóm được chính xác hơn. Ví dụ về mẫu kế hoạch của nhóm: Thời gian Công việc Người thực hiện/hỗ trợ Kết quả Lí do không hoàn thành (nếu có) Tuần 05 Tìm hiểu về hoạt động quản lí thông tin của tiệm sơn Sơn Yến: Phỏng vấn nhân viên về những công việc phải làm. Xin mẫu các loại biểu mẫu (hóa đơn nhập, hóa đơn xuất, báo cáo công nợ, ) Dương, Nam. Thu, Hòa. ü - Chưa đầy đủ. - Quên xin bảng mã màu sơn. Tuần 06 Đặc tả bài toán quản lí. Phân tích, liệt kê các chức năng cần thiết của CSDL. Dương viết; các thành viên khác đọc và bổ sung. Cả nhóm. ü - Chưa hoàn thành. - Thiếu thời gian. . . Kiểm tra và điều chỉnh kế hoạch thực hiện dự án: Trong suốt quá trình học tập cũng như quá trình thực hiện dự án, tôi thường xuyên yêu cầu các nhóm báo cáo tiến độ ứng với các mốc thời gian đã được quy định trong bảng kế hoạch tổng thể mà tôi đã đưa cho các nhóm. Thông qua đó tôi sẽ đánh giá được tiến độ và mức độ hoàn thành công việc của các nhóm cũng như hướng dẫn các nhóm cách thực hiện hoặc giúp các nhóm có sự điều chỉnh kịp thời. Ngoài các mốc thời gian đã quy định trong Kế hoạch tổng thể, tôi cũng thường xuyên hỗ trợ các nhóm qua hình thức kết nối online mỗi khi các nhóm cần hướng dẫn, đặc biệt là trong giai đoạn đầu thực hiện dự án. Việc này tuy có mất thời gian nhưng sẽ đảm bảo được việc các nhóm sẽ hiểu rõ được những công việc cần phải làm, cách thực hiện và sản phẩm cần có của từng giai đoạn, tránh việc bế tắc, nản chí rồi từ bỏ. Tổ chức báo cáo, đánh giá, cho điểm: Về quy định các cột điểm: Để giảm tải áp lực làm bài kiểm tra cho học sinh, đặc biệt là học sinh khối 12, thông qua các buổi báo cáo, ngoài việc kiểm soát, đốc thúc tiến độ và hướng dẫn, trợ giúp học sinh trong việc thực hiện dự án, tôi còn nhận xét, đánh giá và cho điểm, thay thế các bài tra thường xuyên và định kì truyền thống. Trong đó: Kết quả báo cáo trong tuần 8 (Tìm hiểu bài toán quản lý): lấy điểm KTTX 2. (Điểm KTTX 1 là một bài kiểm tra trắc nghiệm trước đó về chủ đề Khái niệm Cơ sở dữ liệu). Kết quả báo cáo trong tuần 12 (Thiết kế bảng): lấy điểm kiểm tra giữa kì I. Kết quả báo cáo trong tuần 16 (Cập nhật dữ liệu): lấy điểm KTTX 3. Kết quả báo cáo trong tuần 18 (Kết quả giai đoạn 1): lấy điểm kiểm tra HK I. Kết quả báo cáo trong tuần 25 (Tạo biểu mẫu): lấy điểm KTTX 4. Kết quả báo cáo trong tuần 28 (Truy vấn dữ liệu): lấy điểm kiểm tra giữa kì II. Kết quả báo cáo trong tuần 31 (Tạo báo cáo): lấy điểm KTTX 5. (Điểm KTTX 6 là một bài kiểm tra trắc nghiệm về chủ đề CSDL quan hệ). Kết quả báo cáo trong tuần 34, 35 (Báo cáo sản phẩm hoàn thiện): lấy điểm kiểm tra HK II. Về hình thức báo cáo: Tùy theo nội dung của từng giai đoạn mà tôi tổ chức các buổi báo cáo với nhiều hình thức khác nhau. Có thể là báo cáo trên lớp (các lớp đều có lắp Tivi), có thể là ở hội trường (nơi có lắp màn hình máy chiếu rất lớn), hay chỉ cần nộp sản phẩm qua email để tôi kiểm tra (ví dụ khi báo cáo về nội dung Tạo liên kết bảng trong tuần 21). Đối với buổi báo cáo về sản phẩm hoàn thiện (cuối năm học), tôi thường tổ chức trái buổi với buổi học chính khóa trên phòng Hội trường của nhà trường, mời thêm một số giáo viên khác trong cùng bộ môn tham dự và cùng nhận xét, đánh giá, đồng thời để họ góp ý thêm cho tôi về phương pháp đánh giá sao cho được hoàn thiện hơn. Về tiêu chí đánh giá: Tôi xây dựng bộ tiêu chí đánh giá dựa trên cả kết quả của sản phẩm và khả năng hợp tác làm việc nhóm của các nhóm như sau: Chất lượng sản phẩm (70% điểm): + Sản phẩm có chất lượng; + Vận dụng được những kiến thức đã học để hoàn thiện được sản phẩm ứng với từng giai đoạn; + Trình bày rõ ràng, nội dung được sắp xếp hợp lí, phong cách trình bày lôi cuốn; + Trả lời được các câu hỏi phản biện từ giáo viên hoặc các nhóm khác. Khả năng hợp tác (30% điểm): + Tham gia đầy đủ các buổi làm việc nhóm; + Tích cực tham gia đóng góp ý kiến; + Biết hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện dự án; + Kiểm soát tốt và điều chỉnh kế hoạch kịp thời, nộp sản phẩm đúng thời hạn. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Sáng kiến này tôi bắt đầu triển khai từ năm học 2019-2020, nhưng mới chỉ áp dụng với một số học sinh đam mê môn học có mong muốn thực hiện dự án để lấy điểm thay cho điểm kiểm tra cuối kì. Vì phạm vi nghiên cứu khi đó còn hẹp nên tại thời điểm đó tôi chưa thể đánh giá hết được tính hiệu quả của đề tài. Tuy nhiên, với những thành công bước đầu, tôi đã mạnh dạn áp dụng rộng rãi cho những lớp 12 mà tôi trực tiếp giảng dạy trong năm học 2020-2021, trong đó: Các lớp thực nghiệm: 12A1 (40 học sinh), 12A5 (40 học sinh). Các lớp đối chứng: 12A3 (41 học sinh), 12A7 (40 học sinh). Việc lựa chọn 4 lớp trên là hoàn toàn phù hợp vì sĩ số và trình độ giữa các lớp là tương đương nhau. Với các lớp thực nghiệm, tôi lấy điểm thành phần như trong bảng kế hoạch đã nêu ở phần trước, còn các lớp đối chứng tôi cho làm các bài kiểm tra bình thường như lâu nay vẫn làm (trắc nghiệm, thực hành, ). Mặc dù điểm trung bình chung môn học của các lớp thực nghiệm cao hơn nhiều so với các lớp đối chứng, nhưng để khách quan trong việc đánh giá hiệu quả của sáng kiến, tôi không dựa vào điểm trung bình cuối năm của học sinh tại các lớp này để so sánh vì hình thức kiểm tra, đánh giá giữa các lớp này là hoàn toàn khác nhau. Do vậy, để khách quan, sau quá trình thực nghiệm kết thúc, tôi cho tất cả các lớp cùng làm một đề kiểm tra chung. Đề kiểm tra này tương tự như một bài thực hành tổng hợp, trong đó yêu cầu học sinh vận dụng hết tất cả những kiến thức đã học để xây dựng một CSDL đơn giản trong 45 phút với đầy đủ các yêu cầu từ thiết kế bảng, nhập dữ liệu, liên kết bảng, tạo mẫu hỏi, tạo báo cáo, tạo biểu mẫu... Và kết quả đạt được giữa các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng như sau: Lớp Giỏi Khá Trung bình Yếu SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Lớp thực nghiệm (80 học sinh) 38 47.5% 32 40.0% 10 12.5% 0 0.0% Lớp đối chứng (81 học sinh) 11 13.6% 30 37.0% 34 42.0% 6 7.4% (Ghi chú: Từ viết tắt “SL” có nghĩa là “Số lượng”) BIỂU ĐỒ SO SÁNH KẾT QUẢ GIỮA LỚP THỰC NGHIỆM VÀ LỚP ĐỐI CHỨNG 40 35 30 25 20 15 10 5 0 Giỏi Khá Trung bình Lớp đối chứng Yếu Lớp thực nghiệm Dựa vào bảng tổng hợp kết quả trên, ta có biểu đồ so sánh kết quả giữa các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng sau quá trình thực nghiệm như sau: Đặc biệt, để thăm dò ý kiến phản hồi của học sinh về hình thức học tập, kiểm tra, đánh giá này, tôi đã lập một phiếu khảo sát với 4 mức độ hiệu quả tại các lớp đối chứng. Kết quả khảo sát như sau: Số học sinh tham gia khảo sát Rất hiệu quả Khá hiệu quả Hiệu quả thấp Không hiệu quả SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 80 36 45.0% 38 47.5% 4 5.0% 2 2.5% Với những học sinh cho rằng cách đánh giá này là hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả thì các nguyên nhân sau được học sinh hay đề cập: không sắp xếp được thời gian để hoạt động nhóm; không có phương tiện đi lại khi các nhóm hoạt động trái buổi học; không có máy tính cá nhân nên khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; quỹ thời gian dành cho môn học là không nhiều; gặp khó khăn về kĩ năng giao tiếp, thảo luận, quản lí nhóm; Nhìn vào các số liệu thống kê và biểu đồ so sánh kết quả trên, ta có thể khẳng định học sinh ở các lớp thực nghiệm có kết quả học tập tốt hơn rất nhiều so với các lớp đối chứng, điều đó có nghĩa là sáng kiến này đã mang lại một hiệu quả đáng kể trong việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh. Tuy nhiên theo kết quả khảo sát thì vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc về mặt cơ sở vật chất, điều kiện kinh tế, phương tiện đi lại và quỹ thời gian của học sinh dành cho môn học mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và khắc phục để sáng kiến có thể mang lại nhiều hiệu quả hơn. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: Các ưu điểm: Học sinh học được cách học tập, làm việc có kế hoạch, học được cách kiểm soát và điều chỉnh kế hoạch để đảm bảo tiến độ khi thực hiện các dự án học tập, từ đó áp dụng vào các vấn đề khác trong cuộc sống. Học sinh biết cách hợp tác thay vì cạnh tranh so với trước khi thực hiện, kĩ năng làm việc nhóm của học sinh vì thế cũng tốt hơn. Học sinh biết cách vận dụng kiến thức vào việc giải quyết các bài toán trong thực tế, giúp học sinh cảm thấy hào hứng hơn, chủ động hơn, xác định rõ hơn mục tiêu môn học, từ đó biết cách điều chỉnh phương pháp học tập phù hợp với mục tiêu đó. Học sinh có cơ hội để thể hiện sự sáng tạo, cá tính và năng lực của bản thân ngay trong sản phẩm của mình. Giáo viên có thể đánh giá đúng năng lực thực tế, sự sáng tạo, cũng như phẩm chất của học sinh một cách toàn diện. Các mặt hạn chế: Học sinh chưa quen với việc lập kế hoạch và kiểm soát kế hoạch; cũng như chưa hoặc ít có cơ hội thực hiện dự án trong các môn học khác nên còn mơ hồ về cách thực hiện, giáo viên sẽ mất nhiều thời gian để hướng dẫn. Số lượng máy tính của thư viện nhà trường chưa đủ để phục vụ cho quá trình thực hiện dự án học tập, nhất là khi các nhóm thực hiện ngoài giờ lên lớp, do vậy đôi khi giáo viên phải dành thêm giờ trái buổi cho học sinh sử dụng phòng thực hành đối với những nhóm không có máy tính cá nhân ở nhà. Việc hoạt động nhóm trong những buổi ngoài giờ lên lớp còn khó khăn do trong năm học vừa qua trải qua nhiều đợt thực hiện giãn cách xã hội do dịch bệnh, cùng với đó là kế hoạch cũng bị thay đổi thường xuyên. Phương pháp đánh giá khá mới ở cấp THPT, chưa có nhiều tài liệu để tham khảo, do vậy tôi chưa xây dựng được bộ các tiêu chí đánh giá (RUBRICS) với những mô tả chi tiết, cụ thể, mà mới chỉ liệt kê được những tiêu chí đánh giá cơ bản. Hướng phát triển đề tài: Đề tài này tôi mới chỉ thực hiện trong trong việc đánh giá học sinh khối 12. Tuy nhiên, với môn Tin học, nội dung môn học gắn liền với những vấn đề của cuộc sống, do vậy việc cho học sinh thực hiện dự án để được đánh giá thay thế các bài kiểm tra là hoàn toàn có thể thực hiện. Do vậy, trong thời gian tới, tôi hi vọng sẽ có thể tiếp tục mở rộng nghiên cứu để áp dụng cho cả ba khối lớp. Ví dụ, với chủ đề “Soạn thảo văn bản” ở lớp 10, học sinh có thể thực hiện các dự án như: thiết kế báo tường, thiết kế một bộ ảnh lịch, thiết kế một bộ sưu tập các mẫu thiệp cưới, thiết kế một cuốn sổ tay tóm tắt các triều đại phong kiến Việt Nam, Tương tự như vậy cho các chủ đề khác, khối khác, và cả môn học khác. Đồng thời, tôi cũng hi vọng tôi có thể tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cách thức xây dựng phiếu đánh giá việc thực hiện dự án theo nhóm với những bộ tiêu chí cho từng loại dự án được đầy đủ và chi tiết hơn. Bài học kinh nghiệm: Khi lên kế hoạch tổng thể cần chú ý đến các mốc thời gian sao cho phù hợp với tiến trình bài học, và cần tính đến sự hợp lí đối đối với học sinh khi phải cân đối thời gian dành cho môn học và các hoạt động khác. Để đảm bảo các nhóm không bị bế tắc dẫn đến bỏ cuộc, giáo viên cần dành thêm những khoảng thời gian cố định để gặp gỡ, trao đổi, hỗ trợ các nhóm (có thể trực tiếp hoặc trực tuyến) trong suốt quá trình học sinh thực hiện dự án. Khi mới bắt đầu, học sinh sẽ rất khó hình dung về sản phẩm cuối cùng của dự án, do đó giáo viên cần chuẩn bị một CSDL mẫu đã được thiết kế hoàn chỉnh để giới thiệu, giúp học sinh định hình và định hướng được sản phẩm đầu ra một cách dễ dàng, cụ thể hơn. Kiến nghị: Đối với học sinh và phụ huynh: Nên ưu tiên việc mua máy tính thay vì điện thoại cho học sinh để học sinh thuận tiện hơn trong việc học tập và thực hiện dự án học tập. Đối với tổ bộ môn: Cần tổ chức nhiều hơn các buổi sinh hoạt chuyên môn về chủ đề đổi mới kiểm tra, đánh giá, thay vì chủ yếu tập trung về chủ đề đổi mới phương pháp dạy học; Đặc biệt, nên hợp tác cùng nhau để xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá (RUBRIC) các dự án của học sinh một cách đầy đủ, chi tiết, cụ thể. Đối với nhà trường: + Nên tạo các mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp, tổ chức có ứng dụng CSDL trong việc quản lí thông tin để học sinh được tham quan, tìm hiểu trực tiếp tại các doanh nghiệp, tổ chức đó về CSDL thông qua sự giới thiệu của nhân viên đang trực tiếp quản trị CSDL. + Cần mua thêm máy tính và bố trí thêm các bàn làm việc theo nhóm tại thư viện nhà trường để học sinh dễ dàng thảo luận, làm việc nhóm ngoài giờ lên lớp. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo: Cần tập hợp các sáng kiến về kiểm tra, đánh giá theo hướng tiệm cận năng lực học sinh đã được các đơn vị thành viên triển khai, áp dụng có hiệu quả và đã được công nhận, công khai các sáng kiến đó trên cổng thông tin điện tử của Sở Giáo dục để các đơn vị khác dễ dàng tải về nghiên cứu, học tập và áp dụng cho đơn vị của mình. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tiến tới việc nghiên cứu giải pháp cho phép những học sinh có điều kiện có thể thực hiện dự án lấy điểm thay thế điểm trung bình chung của môn học mà không cần làm các bài kiểm tra thành phần. PHỤ LỤC Hình 1 - Quá trình tìm hiểu bài toán quản lí thông tin được sân khấu hóa bởi học sinh lớp 12A1 Hình 2 - Dự án xây dựng CSDL Quản lý thư viện với sự hỗ trợ của Đầu đọc mã vạch Hình 3 - Dự án xây dựng CSDL Quản lý kì thi tuyển sinh lớp 10 Hình 4 – Một biểu mẫu nhập dữ liệu của dự án Xây dựng CSDL quản lý sản xuất cho doanh nghiệp chế biến gỗ Hưng Thịnh Hình 5 - Phiếu xuất kho của dự án Xây dựng CSDL quản lý sản xuất cho doanh nghiệp chế biến gỗ Hưng Thịnh Hình 6 - Một mẫu báo cáo của của dự án Xây dựng CSDL Quản lý thư viện của một nhóm khác Hình 7 - Giáo viên trao đổi online để hướng dẫn các nhóm học sinh trong suốt quá trình thực hiện dự án -o0o- TÀI LIỆU THAM KHẢO Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014. Website: https://taphuan.csdl.edu.vn/
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_danh_gia_hoc_sinh_khoi_12_qua.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới đánh giá học sinh khối 12 qua việc thực hiện các dự án xây dựng CSDL.pdf