Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp nâng cao chất lượng Tin học 10 ở trường THPT Nậm Tăm

Qua các năm giảng dạy, tôi nhận thấy bộ môn Tin học là một bộ môn mới ở trường THPT, các trường THCS trên địa bàn hầu như coi Tin học chỉ là môn học tự chọn và chưa được quan tâm đến vì nhiều lí do khách quan. Trường THPT Nậm Tăm đến 90% các em học sinh tuyển vào lớp 10 mới được làm quen với bộ môn Tin học, vì vậy có rất nhiều kiến thức cơ bản về Tin học – CNTT như: Bộ phận máy tính, một số thuật ngữ chuyên môn, các khái niệm, rèn luyện các thao tác kỹ năng thực hành cơ bản sử dụng máy tính, sử dụng các chương trình, .... mà các em phải tiếp thu.

Trong dạy học môn tin, tôi nhận thấy nếu có một phương pháp tốt sẽ rất dễ gây hứng thú cho học sinh vì học sinh luôn muốn học những điều mới lạ, học sinh rất thích làm quen và khám phá máy tính, có thể nhận thấy đây là một điều kiện thuận lợi cho giáo viên. Tuy nhiên với chương trình tin học đòi hỏi sự linh hoạt rất cao của các giáo viên, sử nhạy bén, tư duy có sự quan sát và sáng tạo và kỹ năng sử dụng máy tính của học sinh để giải quết vấn đề, vì vậy đòi hỏi phải tìm ra phương pháp giảng dạy để học sinh dễ hiểu, dễ dàng tìm được sự móc nối giữa các kiến thức, kỹ năng thực hành, như học sinh ở trường THPT Nậm Tăm mà từ khi thành lập tới nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này.

Với những lí do như trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Phương pháp nâng cao chất lượng tin học 10 ở trường THPT Nậm Tăm”

doc 26 trang Chăm Nguyễn 16/03/2025 660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp nâng cao chất lượng Tin học 10 ở trường THPT Nậm Tăm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp nâng cao chất lượng Tin học 10 ở trường THPT Nậm Tăm

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp nâng cao chất lượng Tin học 10 ở trường THPT Nậm Tăm
 tiến hành cho học sinh thực hành ngay tại chỗ để học sinh cảm nhận được thực tế của kiến thức bằng cách: gọi một học sinh lên làm trực tiếp và chiếu lên máy chiếu, các học sinh khác thực hiện trực tiếp trên máy tại vị trí ngồi của mình. Sau khi thực hiện thao tác xong tất cả các học sinh lại chú ý lên bảng để đến với nội dung tiếp theo của bài.
Ví dụ: Khi học lý thuyết về cách tạo bảng biểu trong STVB tại phòng máy, giáo viên và học sinh tìm hiểu xong hai cách tạo bảng, lúc đó dừng lý thuyết lại gọi một học sinh nên thực hành cách tạo bảng ngay trên máy của giáo viên và chiếu qua máy chiếu, các em còn lại thực hành trên máy tại chỗ. xong rồi học sinh lại dừng thực hành lại và tiếp tục học phần lý thuyết tiếp theo, cứ như vậy đến hết bài. như vậy học sinh vừa được nghe, vừa được thấy, vừa được làm, khi đó học sinh sẽ khắc nghi được kiến thức đồng thời cũng rèn luyện thêm kỹ năng thực hành cho học sinh.
Khi thực hiện với phương pháp trên qua khảo sát mức độ nhận thức tâm lý cũng như sự hứng thú học của học sinh thì kết quả rất khả quan:
90% học sinh nói thích học theo phương pháp này và các em đều tỏ ra hứng thú và tiếp thu bài tốt. 10% các em học sinh còn lại đã biết và chỉ muốn khám phá mày mò, tìm hiểu sâu hơn.
Với phương pháp như trên đối với các bài lý thuyết mà sau đó là bài thực hành, thì học sinh đã phần nào không còn bỡ ngỡ trước bài thực hành, như vậy học sinh đã được tăng thêm thời lượng thực hành so với tiết thực hành theo PPCT cho mỗi học sinh đặc biệt là với các học sinh ít được tiếp xúc với máy tính như Nặm Tăm. Điều đó được kiểm ngiệm qua việc khảo sát so sánh giữa hai lớp tôi cùng dạy như sau:
Học sinh hai lớp 10A1, 10A2 trường THPT Nậm Tăm
Lớp 10A1: Học lực tốt hơn lớp 10A2 (10a1 lớp chọn)
Lớp 10A1, 10A2 kỹ năng sử dụng máy tính tương đương nhau:
Lớp 10a1: dạy tại lớp với giáo án điện tử thông thường
Lớp 10a2: dạy tại phòng máy với giáo án điện tử và học sinh được thực hành ngay tại trên máy theo từng nội dung
Kết quả: 
Lớp
Thực hiện tốt ngay tiết thực hành thứ nhất
Qua thời gian thực hành mới thực hiện được
10a1
53%
47%
10a2
64%
36%
3.4. Biện pháp chia đối tượng học sinh:
3.4.1 Với học sinh học khá bộ môn tin học:
Với học sinh có nhận thức, có tư duy tốt giáo viên tạo điều kiện cho các em khám phá tìm hiểu sâu hơn so với yêu cầu đạt được của bộ môn. Chương soạn thảo văn bản đây là chương hầu như chủ yếu hướng dẫn học sinh biết và sử dụng phần mềm vào trong công việc thực tế - Sách giáo khoa chỉ giới hạn những kiến thức kỹ năng cơ bản để học sinh bước đầu biết về soạn thảo văn bản. Những với học sinh đã có kỹ năng sử dụng máy tính các em hầu như rất hào hứng được khám phá với chỉ tò mò của mình, khi đó giáo viên có thể hướng dẫn các em một số chức năng cao hơn chẳng hạn như: định dạng chữ to đầu dòng, chia cột trong văn bản, chèn ảnh, ký hiệu đặc biệt, các đường nét trong bảng biểu.... và có thể cho các em tự hướng dẫn các học sinh yếu hơn lúc đó các em mạnh dạn hơn trong học hỏi: “học thầy không tày học bạn”
3.4.2 Với học sinh học yếu:
Học sinh chưa có kỹ năng sử dụng máy tính giáo viên cũng lên tạo điều kiện cho các em thực hành nhiều hơn để làm chủ được với thao tác trên máy tính, khi các em đã làm được những điều mà trước đó các em chưa làm được thì học sinh có suy nghĩ rất hào hứng và muốn khám phá nhiều hơn tạo ấn tượng tốt cho bộ môn. Hơn nữa các em mạnh dạn hơn khi hỏi một số bạn biết hơn chỉ rõ cho minh, hơn là hỏi các thấy cô giáo vì: theo tâm lý các em càng không biết thì càng không dám hỏi thầy, cô.
3.5. Biện pháp kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
 	Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
	Trong quá trình đánh giá học sinh nhiều giáo viên thường yêu cầu học sinh học thuộc lòng các định nghĩa các khái niệm của SGK, tôi thấy việc này là rất không nên và không cần thiến vì tin học là một môn học với đặc tính công nghệ cao, các khái niệm đi liền với công nghệ và thay đổi rất nhanh. Những khái niệm rất cơ bản như thông tin, khái niệm tệp, thư mục, khái niệm bộ nhớ, mạng máy tính... đều đã thay đổi rất nhiều.
	Vậy thì làm thể nào để kiểm tra được kiên thức về lý thuyết đối với học sinh?
	Kiểm tra lý thuyết của môn tin học bằng việc mô tả khái niệm lý thuyết bằng tình huống, hình ảnh và thao tác trên máy tính. Do vậy cần được tiến hành một cách linh hoạt thông qua các câu hỏi tình huống, các thao tác cụ thể trên máy tính. Như khi hỏi về khái niệm Tệp, Thư mục học sinh không cần học thuộc lòng định nghĩa trong sách. Giáo viên sẽ đưa ra các tình huống, câu hỏi và học sinh trả lời, ví dụ: Trên màn hình Desktop là tệp hay thư mục? Thư mục LOP 10a1 có nằm trong thư mục DATA không? Những câu hỏi tình huống kiểu như vậy vừa là các gợi ý vừa là cách tốt nhất để học sinh hiểu rõ hơn các khái niệm.
Ví dụ: Trong một giờ thực hành đầu tiên giáo viên thường đưa ra mục đích yêu cầu của bài thực hành, sau đó hướng dẫn lại các kiến thức, kỹ năng mà giờ lý thuyết đã học. Để thực hiện được mục đích đó học sinh phải có kiến thức và kỹ năng nhất định nào đó mới đạt được. Cuối mỗi buổi thực hành giáo viên giành khoảng 3 – 5 phút gọi 1, 2 học sinh tự đánh giá lại xem, em đã làm được những gì qua buổi thực hành so với yêu cầu của thầy, cuối cùng giáo viên đánh giá khái quát lại và chỉ ra những chỗ học sinh chưa làm được và nguyên nhân vì sao? Qua đó bản thân học sinh đó và các học sinh khác thấy được mình còn yếu ở phần nào, vì sao? để tiếp tục điều chỉnh, khắc phục ở giờ tiếp theo, từ đó thúc đẩy ý thức học tập của học sinh. Phương pháp này thời gian qua tôi đã áp dụng ở khối lớp 12a, 12b, 10a1, 10a2, 10a6 và kết quả cũng rất khả quan.
Ban đầu: 80% học sinh nói không thích tự đánh giá qua mỗi buổi.
10 % học sinh nói không biết vì các em đều có thao tác được với máy tính.
Có thể nói học sinh không thích cũng là do tâm lý không muốn cho người khác biết được hạn chế, yếu điểm của mình. Nhưng khi phải nhận xét đưa ra những yếu điểm của mình học sinh cảm thấy như bị nhắc nhở và không muốn phải làm điều đó ở các giờ sau nữa. Đó cũng chính là động lực để các em phấn đấu trong lần sau. 
Giữa học kỳ II: qua khảo sát 76% học sinh nói thích đánh giá như vậy vì qua đó các em thấy được mình còn yếu chỗ nào để điều chỉnh cách học kịp thời.
 	Giáo viên lên hướng dẫn và khuyến kích học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. Để đào tạo theo hướng phát triển những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
3.2. Hiệu quả của sáng kiến: 
Từ thực tế dạy học của bản thân những năm gần đây các lớp 10 tại THPT Nậm Tăm, tôi nhận thấy phương pháp này có những mặt tích cực sau đây:
Giờ học trở lên sinh động, giảm bớt kiến thức trừu tượng, không sa vời thực tế mà thiết thực với học sinh, gây hứng thú thực sự cho học sinh, sự yêu tích môn học tăng lên rõ rệt. Phát huy được sự tích cực chủ động của học sinh trong nắm bắt kiến thức từ thực tiễn và từ kỹ năng thực hành.
Kết quả: Sau khi học xong các bài được áp dụng thực tế, học sinh được thực hành ngay, tôi đã thu được kết quả khá khả quan. Có 90% học sinh ở những lớp tôi giảng dạy trả lời là rất hứng thú với bài học, hiểu bài hơn, dễ nhớ hơn, yêu thích môn học hơn tuy có vất vả hơn.
Qua thời gian áp dụng phương pháp trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung của môn Tin học nói riêng ngày càng được nâng cao, chất lượng giáo dục ngày càng có sự chuyển biến rõ rệt. Vị thế của nhà trường được xã hội nghi nhận.
Cụ thể xếp loại học lực 3 năm học: so sánh cùng thời kỳ
Năm học
Số học sinh khối 10 
Xếp loại học lực bộ môn Tin học khối 10
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
2011-2012
103
0
6
48
36
13

5,83%
46,6%
34,95%
12,62 %
2012-2013
214
0
15
82
90
27

7,01%
38,32%
42,06%
12,62%
2013-2014
181
0
19
81
81
0

10,5 %
44,75%
44,75%

( Số liệu các năm học tính đến thời điểm hết học kì I)
Đánh giá cụ thể kết quả bộ môn hai lớp cuối của khối 10 (hai lớp đã khảo sát đầu năm chia theo trình độ học sinh), do hai giáo viên giảng dạy, với phương pháp khác nhau năm học 2013-2014 như sau:
	Lớp 10a5: được đánh giá cao hơn, không áp dụng phương pháp mới
	Lớp 10a6: được đánh giá thấp hơn, áp dụng phương pháp mới
Lớp
Số học sinh 
Xếp loại học lực bộ môn Tin học 
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
10a5
31
0
0
7
15
9


22,58 %
48,39%
29,03%
10a6
31
0
1
10
18
2

3,28 %
32,26%
58,06%
6,45%
( Số liệu tính đến thời điểm hết học kì I năm học 2013-2014)
3.3. Ứng dụng vào thực tiễn:
3.3.1. Bài học kinh ngiệm:
Khi soạn giảng, dạy bằng cách trên tôi nhận thấy một số điểm như sau:
Mất nhiều thời gian để đầu tư siêu tầm các thiết bị máy tính hỏng để giới thiệu cho học sinh.
Các thao tác kỹ năng thực hành còn chậm với một số học sinh yếu và học sinh chưa được tiếp xúc với máy tính nhiều đẫn đến “cháy” giáo án.
Dẫu vậy thì cách dạy này vẫn là một trong các giải pháp khá hữu hiệu đối với học sinh chưa có điều kiện tiếp xúc với máy tính nhiều như Nậm Tăm, chỉ cần:
Giáo viên chuẩn bị bài giảng tốt, sưu tầm và lựa chọn các thiết bị máy tính đã hỏng, phòng máy, máy chiếu cho từng bài học.
Qua các tiết giảng dần dần học sinh sẽ có thao tác kỹ năng thực hành ngày càng tốt lên. Từ đó kích thích sự tò mò khám phá của học sinh khắc phục điều kiện bản thân tự học, tự tin để vươn lên trong học tập.
3.3.2. Ý nghĩa: 
Đề tài SKKN đưa ra một số đề xuất và lý giải một số biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn Tin học 10 cho học sinh trường THPT Nậm Tăm tỉnh Lai Châu để trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng cho học sinh phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, của ngành và đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Việc học thông qua các thiết bị thực tế và các thao tác kỹ năng thực hành tin học có ý nghĩa quan trọng: không chỉ đơn thuần là tiếp thu kiến thức của bài giảng trong Tin học 10 mà còn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh dưới dự hướng dẫn của giáo viên. Qua đó tạo sự hứng thú niềm tin đối với môn học, phát huy năng lực tư duy, sáng tạo độc lập của học sinh.
Thông qua đó trang bị cho cho học sinh nhà trường kỹ năng thực hành sử dụng máy tính và mạng máy tính phục vụ học tập, bước đầu vận dụng vào cuộc sống, đó cũng chính là một phần hành trang tương lai của học sinh sau này.
3.3.3. Tính khả thi và khả năng ứng dụng triển khai:
Trong môi trường dạy học với điều kiện đổi mới phương pháp, ứng dụng CNTT vào giảng dạy là một trong các chủ trương của Đảng nhà nước, Bộ giáo dục Đào tạo, các cơ sở giáo dục đều được trang bị phòng máy tính và máy chiếu 
Máy tính để giáo viến sử dụng, giáo viên hầu như đều có máy tính cá nhân. Các thiết bị máy tính hỏng dễ dàng tìm kiếm được ở các cửa hàng máy tính, do đó với giáo viên tin học đều có thể thực hiện được.
	Với đối tượng học sinh còn xa lạ với máy tính, Tin học như ở trường THPT Nậm Tăm thì khả năng ứng dụng triển khai là rất có hiệu quả. Nhờ vận dụng phương pháp này trong những năm qua ở trường THPT Nậm Tăm tôi đã đạt được một số kết quả nhất định. Học sinh cởi mở, hứng thú, lĩnh hội kiến thức dễ dàng hơn làm cho học sinh tự tin hơn vào việc học tập của bản thân, tạo cơ hội cho học sinh khám phá chi thức cho các chủ nhân tương lai. 
PHẦN KẾT LUẬN
Kết luận:
Vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là chủ chương của Đảng, Nhà nước và của Ngành Giáo dục trong các năm gần đây, do vây ta thấy được sự cần và cấp thiết đổi mới phương pháp giảng dạy của từng giáo viên, từng bộ môn, từng thời kỳ.
Bản thân là một giáo viên đứng lớp, đứng trước chủ chương của ngành, của đơn vị tôi luôn trăn trở rằng làm thế nào để nâng cao chất lượng của bộ môn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà trường. Từ đó tôi đã áp dụng các phương pháp như đã trình bày ở trên, ban đầu do học sinh chưa quen lên cũng găp khó khăn như: vừa học lý thuyết học sinh vừa thao tác thực hành ngay dẫn đến mất nhiều thời gian “cháy” giáo án, đặc biệt là phương pháp học sinh tự đánh giá qua các giờ học thực tế trên máy tính. Nhưng sau một thời gian thực hiện cũng đã cho kết quả khá khả quan. Học sinh hứng thú học, ham học, yêu thích môn học, tiếp thu bài tốt hơn và kết quả cao hơn và điều quan trọng là kỹ năng sử dụng máy tính của học sinh cao hơn rõ rệt.
2. Kiến nghị, đề xuất.
Vấn đề đổi mới phương pháp trong giờ học đang là vấn đề cần thiết. Để dạy học Tin học trong nhà trường có hiệu quả, tôi đề nghị một số vấn đề như sau:
Để thực hiện tốt bài giảng đòi hỏi giáo viên phải có lòng đam mê yêu thích môn học yêu thích vi tính, đầu tư thời gian tìm tòi sáng tạo hơn nữa.
 Là giáo viên ai cũng có thể thực hiện và thực hiện tốt sáng kiến này.
Ngoài phòng tin học, phòng học được trang bị máy chiếu phông chiếu, nhà trường có thể thiết kế một phòng học chung riêng biệt trang bị cố định hệ thống máy móc các thiết bị điện tử (máy tính, máy chiếu, loa, phông chiếu, nếu có thể thì trang bị thêm máy phát điện...) phục vụ cho việc giảng dạy các môn học khác.
Với thực trạng học Tin học trong nhà trường và yêu cầu đổi mới phương pháp hạy học Tin học, có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nâng cao chất lượng Tin học. 
Mặc dù đã cố gắng song không thể tránh được các thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. 
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nậm Tăm, ngày 02 tháng 04 năm 2014
Xác nhận của lãnh đạo nhà trường
Tác giả
Vũ Minh Tình

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lí luận và phương pháp dạy học tin học
(Tài liệu tham khảo dùng cho sinh viên do thầy Trần Thanh Hải biên soạn)
2. Bộ Giáo dục & Đào tạo - Sách giáo khoa tinh học 10- NXB Giáo dục
3. Bộ Giáo dục & Đào tạo - Sách giáo viên tin học 10 - NXB Giáo dục
4. Phương pháp dạy học đại cương môn tin học – NXB Đai học Sư phạm 
5. Website của Bộ GD&ĐT: 
 6. Website của Trung tâm hỗ trợ giáo viên: 
MỤC LỤC

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_nang_cao_chat_luong_tin_ho.doc